Thắng cảnh:
Là một đảo nằm gần đất liền với chiều dài 4km, chỗ rộng nhất hơn 1km, chỗ hẹp nhất khoảng 300m. Diện tích đảo là 4km2.
Dãy Nghi Sơn (Biện Sơn) chạy suốt chiều dài của đảo, địa hình nhấp nhô thành 3 đoạn, với cách tên địa danh thường gọi:
Khe Mây – nơi có động xuyên qua hất chiều rộng của núi theo hướng đông tây.
Khe Ngọc: bởi trên sườn núi có giếng Ngọc - chứng tích thiên tình sử bi lụy giữa chàng Trọng Thủy và Mỵ Châu. Khe Ngọc quanh năm có dòng nước nhỏ trong chảy từ trong lòng đất.
Trên mảnh đất này, con người đã trải qua nhiều thế hệ từ thời Lý – Trần – Lê – Nguyễn, biến vùng biển cả phát triển đến ngày nay. Tầng văn hóa khảo cổ rất dày, phân bố ở vùng núi phía tây (ở đây kín gió, có dải đất phù sa tiện lợi cho canh tác, có nguồn nước ngọt nên là địa bàn cư trú của con người. Trong đó, thời Lê (kéo dài 300 năm) có tầng văn hóa dày, chứng tỏ thời kỳ Lê Sơ, con người ở nơi đây đã đạt tới sự phồn thịnh cao.
Cư dân ở Nghi Sơn bao gồm nhiều dòng họ cùng làm nghề đánh bắt hải sản, là cộng đồng có mối liên hệ, cố kết chặt chẽ, để tồn tại và phát triển như ngày nay trên địa bàn 3 thôn là: thôn Bắc Hải, Trung Hải và Nam Hải.
Di tích lịch sử:
Trên địa bàn cư trú không rộng lớn lắm, phần núi chiếm diện tích lớn. Cư dân chủ yếu tập trung dưới chân núi sát biển về phía tây theo chiều dài của đảo nhưng đã để lại một quần thể di tích của các thời đại với những nét đặc trưng khá rõ, đó là:
Hệ thống thành lũy phòng thủ gồm 3 đoạn thành cổ, bố trí rất khoa học chạy dọc theo đảo bảo vệ cho phía đông bắc và tây nam đảo. Các thành này dựa vào địa hình của núi để xây thêm, bổ sung từng đoạn, tạo thành bức thành. Vật liệu xây dựng là đá bộc và gạch vồ. Cả ba thành xây dựng chủ yếu vào thời Lê Sơ nhằm mục đích bảo vệ, ngăn ngừa sự tấn công từ mặt biển vào. Tầng cao của thành so với mặt biển hơn 3m giúp quan sát mặt biển và đất liền được dễ dàng. Phía đông bắc là thành Đồn (còn có tên là Quan sát hải Đại thần) xây theo hình tròn và có một cổng xây gạch vồ còn lại khá rõ rệt. Phía đông nam đảo là ngôi thành thứ hai xây trên ghềnh đá có hình con hươu nên còn gọi là thành Hươu. Thành thứ ba nằm giữa thành Đồn và thành Hươu, chếch về hướng tây đảo, trên Vũng Ngọc nên còn gọi là thành Ngọc. Thành được xây theo hình bán nguyệt nên còn gọi là thành Nguyệt.
Một khẩu súng thần công có kích thước khá lớn còn nằm cạnh cổng thành Đồn.
Những công trình quân sự này có vai trò thật sự quan trọng trong công cuộc bố phòng bờ biển trải dài qua nhiều thời kỳ.
Năm 1789, quân đội Tây Sơn do Quang Trung Nguyễn Huệ chỉ huy đã lấy Biện Sơn làm căn cứ hải quân quan trọng, cùng với đại quân trên bộ đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, giải phóng đất nước. Từ đây, Nghi Sơn (Biện Sơn) trở thành địa danh nổi tiếng trong lịch sử nước nhà.
Giếng Ngọc – Mỵ Châu Trọng Thủy:
Dưới chân núi, về phía tây nam có giếng Ngọc, nước trong, ngọt quanh năm (mặc dù nằm dưới mực nước biển) với truyền thuyết An Dương Vương cùng con gái chạy qua giếng Ngọc và mất tại đây. Trọng Thủy thương vợ cũng tuẫn tiết ở giếng Ngọc. Nhân dân thường đem ngọc trai rửa nước giếng ngọc thì sẽ sáng trong hơn.
Đền thờ Trần Quý Phi còn gọi là đền vua Bà. Bà họ Trần (hiện nay con cháu họ Trần chiếm tỉ lệ khá lớn ở Biện Sơn) là vợ của vua Long Vương. Bà là nhân thần, bảo hộ cho nhân dân đi biển làm ăn. Từ nhiều thế kỉ nay, thờ cúng bà là một nếp sinh hoạt văn hóa truyền thống quan trọng của dân Biện Sơn và quanh vùng Tĩnh Gia.
Quang Trung Nguyễn Huệ trong lần tiến quân ra bắc (1789) đã đến đền cầu khấn. Khi đại phá quân Thanh xong, nhà vua quay lại đền tạ ơn thần.
Năm Thành Thái thứ ba, Khải Định phong sắc cho bà là Thượng Đẳng thần tối linh. Hằng năm, vào ngày 22 – 4 âm lịch tổ chức tế thần.
Đền thờ Tứ vị Thánh Nương:
Nằm kề phía bắc Biện Sơn, sát bờ biển. Đây là văn hóa bản địa Việt Nam (4 vị thần là các nữ thần nước, thần núi, thần đất, thần lúa) và cư dân Lạc Việt trồng lúa nước, đi sông biển tôn thờ phổ biến để cầu cho canh tác, đi biển thuận lợi.
Đền còn có tên gọi là “Tứ vị thần bà tối linh từ”. Một số hiện vật của di tích còn lại là hai voi đá, bát hương đá, cột cờ.
Đền thờ Quan án hải Đại vương:
Đền thờ trên đỉnh núi, thờ thần biển, vết tích còn lại nền móng. Trong phong trào văn thân chống Pháp, Tôn Thất Thuyết đã về Biện Sơn xem xét tình hình và vào các đền thắp hương.
Năm 1937, lãnh binh Tôn Thất Cơ đã phá núi mở đường vào Biện Sơn (con đường ngày nay men theo triền núi đang sử dụng), ông có khắc bài thơ trên hòn đá cạnh bờ biển:
“Rừng xanh ta mở con đường
Để cho người người bước thẳng ngay
Những giống chông gai bình trị hết
Rồi ra thanh thỏa rạng từ đây.”